| Hà Nội năm 2010 và Thăng Long 1000 năm, tôi muốn nói về người Hà Nội “mang gươm đi mở đất” xây dựng một Hà Nội mới trên Cao Nguyên. Nếu tính tuổi khai sinh “bổ nhát cuốc đầu tiên” từ khu kinh tế mới Lâm Hà nay vừa tuổi 35, còn quá trẻ cho một vùng quê mà sức nghĩ cách làm, biến vùng đất hoang sơ thành khu vực kinh tế năng động, một “hợp chủng quốc” đoàn kết, trong đó yếu tố lòng cốt: “Thăng Long rồng cuộn, trời rực hào quang, tạo lắm anh hùng - Hà Nội hổ chầu, đất bừng khí phách, sinh nhiều hào kiệt” tỏa sáng đất Cao Nguyên.
SỨ MẠNG NGƯỜI ĐI MỞ ĐẤT
Sau giải phóng miền Nam, vùng đất này thật hoang vu, lau sậy ngập đầu, bom mìn chỗ nào cũng có, còn ruồi vàng, bọ chó,vắt xanh, muỗi vằn, thú dữ và phun-rô…Sứ mạng khai khẩn đất hoang đặt lên vai hàng nghìn nam thanh nừ tú của đất Hà thành và họ đã không quản chông gai, bom mìn, bất chấp cả thiếu cơm, nhạt muối, sốt rét, mưa rừng… mở đường dựng lán, khai hoang, lập nền móng cho hàng chục điểm dân cư trên vùng đất mới trải dài hàng vạn ha với các tên của làng quê sông Hồng: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Hoài Đức, Đống Đa, Từ Liêm, Tân Hà, Mê Linh, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoàn Kiếm, Ba Đình…
Người Hà Nội văn hoa thật khéo khôi hài, kinh tế mới thì gọi là “ki tớ mớ”. Nhớ cách nay 10 năm, kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà nội, chúng tôi có dịp lên Lâm Hà viết bài cho lễ “tập sự” Thăng Long - Hà Nội 1000 năm. Mấy ngày công tác trên đất Cao Nguyên có dịp “cặp kè” với hai anh Nguyễn Gia Tình, Trưởng ban Tuyên giáo, Phạm Văn Thảo, phó chủ tịch UBND huyện, vốn thuộc thành viên 2000 những chàng trai, cô gái Hà Nội lớp đầu tiên lên đường “Tây Nguyên tiến”, được nghe các anh kể biết bao chuyện “tớ mớ” của 34 năm về trước: Đây,chỗ này là dốc Phì Phò, chỗ kia là đèo Thở Gấp. Chỗ này, mấy anh em mình bị nó ( bọn Phun-rô) bất ngờ sát hại. “Vậy mà ngay hôm sau vẫn đúng kẻng là vào rừng không thiếu một ai”. Một chuyện buồn được kể lại, có một cặp vợ chồng sắp cưới, trên đường đến Ủy ban đăng ký kết hôn, không may chàng rể tương lai bị bọn Phun-rô bắn chết. Cô gái chỉ còn biết chạy đến Ủy ban khóc vật vã !…Tất cả đã rơi vào quá khứ, chuyện vui bây giờ: trồng dâu nuôi tằm, trồng cà phê, cây ăn quả, xây nhà, dựng phố, học hành của con em, chuyện làm giầu…nổ như pháo ran. Chúng tôi “chọc yêu” hai anh Thảo,Tình:“Các ông “hơi bị” khoe đấy!”.Thực ra chẳng mấy khi lên được Lâm Hà, lại là chỗ từng quen biết, hai anh Thảo, Tình muốn chúng tôi đi thật nhiều, thăm vườn cà phê, dâu, quế, vải thiều…thăm nhà ông này, bà nọ, những cựu thanh niên “Tây Nguyên tiến” nay đã lên tuổi ông bà, có tiền triệu, tiền tỷ, có nhà mái bằng, mái chóp, đầy đủ ti vi, tủ lạnh, xe hơi…Đến đâu cũng không thiếu cơm ăn “khách đến nhà thịt cả gà mái ấp”, còn có cả rượu Cát Quế “nước mắt quê hương”, men vùng Hoài Đức nổi tiếng, “mê mệt lòng người”. Tuy đường xá: dốc Phì Phò, Đèo Vắt, ngã ba Hăm, ngã tư Chầy Gối, hết xe U-oát “trâu bò” đến Minsk “nồi đồng cối đá”, cả nội bộ mà anh Thảo, anh Tình trông dáng rất “kẻ sĩ Bắc Hà” vẫn leo đèo nội suối băng băng, còn kích động chúng tôi: “Đối với anh em “ki tớ mớ” chúng tôi, thế này cũng đã là thênh thang tám thước lắm rồi.”
Dù đường đi lối lại (lúc bấy giờ) vẫn là vấn đề gây nhiều nhức nhối do hậu quả của sự đầu tư tản mạn của nhiều cấp, nhiều ngành, song Lâm Hà vẫn là điểm sáng của cao nguyên LangBiang. Giã từ khái niệm kinh tế mới để hòa nhập vào mạng quản lý thống thất của tỉnh Lâm Đồng, Lâm Hà còn có bước phát triển rất nhanh về kinh tế xã hội. Từ năm 1990 đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng GDP Lâm Hà bình quân 19,5% gấp 1,5 lần mức tăng trưởng của tỉnh và 2,5 lần của cả nước. Lúc bấy giờ cả huyện mới có 10.000 hộ giàu, 10/17 xã có điện lưới quốc gia. Riêng khâu điện thì “bà con mình không ngán” vì đã có hàng nghìn máy thủy điện nhỏ được dựng lên cùng với bước đi của thủy lợi hóa. Kinh tế hàng hóa được khơi dậy, lập tức có những đồng vốn bỏ vào dịch vụ. Ở vào thời đểm đó, mà toàn huyện có tới 500 xe chở khách, xe tải tư nhân, cứ 100 dân có 1,5 máy điện thoại kéo gần sự thông thương tình cảm của Lâm Hà với cả nước và quốc tế xa xôi…
“PHỐ NÚI” NAM BAN
Đến Lâm Hà không đi chơi “phố núi” Nam Ban “đại bản doanh” của khu kinh tế mới sẽ là điều đáng tiếc. Nam Ban đương nhiên là khang trang, nhờ sinh sau đẻ muộn, có qui hoạch đàng hoàng, dáng dấp một đô thị “bậc trung”, “chẳng thiếu thứ gì”: trường học, công sở, bưu điện, chợ, bệnh viện, ngân hàng, kho bạc và cả khách sạn mi ni trong khuôn viên cây cối tươi xanh… Nhưng sao xuyến nhất của đường phố Nam Ban, nơi mà hai vị “tiền hiền” khai hoang, ông Chế Đặng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Đức (sau là tỉnh Lâm Đồng) và ông Trần Duy Dương, nguyên Phó chủ tịch UBND thành phó Hà Nội chọn làm “đại bản doanh” của cuộc mở mang vùng kinh tế mới Hà Nội, ngày càng trở thành chất kết dính tình cảm Hà Nội - Lâm Đồng “Nghìn năm hồn cũ Thăng Long - Bỗng như hoa nở giữa lòng Tây Nguyên”. Con số chẳng có ý nghĩ gì , nếu không có con người sáng tạo chủ thể làm ra nó, cái chính như các anh lãnh đạo huyện Lâm Hà nói: Nam Ban bây giờ như một khu kỹ nghệ cao về sản xuất nông nghiệp để từ đó chuyển giao công nghệ tới các xã vùng sâu, vùng xa đang khát khuyến nông. “Người Hà Thành mà, cây con gì cũng nhạy, giá cả Bắc-Nam gì cũng tường”. Chúng tôi đã bắt gặp ở đây những khuôn mặt ‘vui như Tết”, chính là những ông bà chủ gia đình có vườn, ao, có đất và đương nhiên là say công, tiếc việc. Có tiền, việc đầu tiên của nhiều gia đình là lo cho con em học hành, nên 10 năm qua số học sinh tăng lên chưa từng thấy, khiến cho việc xây dựng trường, phát triển đội ngũ giáo viên, nói theo cách của các nhà lạnh đạo huyện là “chóng mặt”. Tại khu trạm cơ giới vận tải (tài sản duy nhất còn lại vết tích của Ban kinh tế mới Hà Nội), được tạm biến thành văn phòng đảng ủy, UBND thị trấn Nam Ban, tiếp chúng tôi, Bí thư đảng ủy và Chủ tịch UBND thị trấn lúc bấy giờ là Lê Hoàng Đạt và Trần Minh Thức thanh minh: “Vì đã 4 lần Đảng ủy, ủy ban phải nhường chỗ cho trường học”. Anh Thức nói vui: “Dân Hà thành ăn ít, học nhiều. Dù nơi làm việc của Đảng ủy, ủy ban có kém, nhưng chỗ học cho con em thì phải đàng hoàng”.
Nam Ban nay đã là thị trấn, “phố núi đặc trưng” với những cái tên đậm nét làng quê sông Hồng: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Hoài Đức, Đan Phượng, Từ Liêm, Tân Hà, Mê Linh, Phúc Thọ…Thời khởi sự cũng hao hao giống Cống Thầm, Chợ Đại thuở nào trong kháng chiến, khi cái vùng quê yên tĩnh của Hà Tây được nhộn nhịp hóa, rồi nhóm lên thành chợ, thành phố xá bởi dòng người di cư từ Hà Nội ra. Mảnh đất của núi rừng Cao Nguyên âm u này, ghi bước chân của những người đầu tiên từ Hà Nội đến mở đất, tạo nghiệp được “lên cấp” thành thị trấn và là thị trấn duy nhất của Cao Nguyên mang dáng dấp Hà Nội. Trong thị trấn có một cảnh đẹp đến mê hồn là Thác Voi hùng vĩ. Dòng suối bắt nguồn từ suối Cam Ly thượng trên cao. Chắc chắn đã có nhiều cặp trai gái kinh tế mới nên vợ nên chồng từ cái thác huyền thoại này, bởi buổi chiều đến thác chúng tôi cũng đã gặp được những đôi mắt mơ màng tâm sự cùng dòng nước trong xanh. Và ngộ hơn, chẳng biết chúng tôi là ai, một số nam nữ tuổi choai choai đang vui chơi đàn ca bên thác đã vây chúng tôi lại xin chữ ký kỷ niệm. Có em trai nghịch ngợm đã xin tôi ký vào ngay vai áo trắng. Có lẽ các em muốn ngày càng có nhiều du khách đến với quê hương mới Nam Ban của mình.
Dân Hà Nội đến Nam Ban thường tự nhủ: “Chỉ có lười lao động thì mới nghèo. Còn một khi đã chịu làm, “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” trên mảnh đất này, thì giầu chưa giám nói, chứ có để ăn no là điều chẳng khó khăn gì”. Bí thư thị trấn Trần Minh Thức, trước đó đã nhiều năm là chủ tịch UBND thị trấn khoe rằng: Quanh cái thị trấn xinh xắn có dáng dấp như khu vực Đội Cấn, Ngọc Hà, Hà Nội này hiện có hơn 4000 hộ dân thì có tới gần 1500 hộ có nhà xây kiên cố cao tầng, 2000 hộ nhà gỗ xây lợp ngói, cả ngàn hộ nhà có từ 1đến 2-3 xe gắn máy, nhà nào cũng có phương tiện nghe nhìn. Cả thị trấn có mấy chục xe đò chạy Bắc Nam, vài chục hộ có xe tải, xe chở khách chạy tuyến ngắn. Dân Nam Ban từ khi khởi nghiệp đã sống kết hợp 3 nghề: làm vườn, dịch vụ và buôn bán. Những đường phố buôn bán tuy sầm uất nhưng thật dễ thương., ngoài các mặt hàng cao cấp công nghệ, điện máy, xăng dầu, vật tư nông nghiệp, xây dựng… thì các măt hàng nhu yếu phẩm gạo, thịt, cá, rau quả đủ thứ, đủ vùng, ngoài của chính Nam Ban còn có trái cây Đà Lạt, nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Thanh Hà Hải Dương, hủ tiếu, miến tàu Sài Gòn, nước mắm Phú Quốc, Phan Thiết, bánh đậu xanh Rồng Vàng. Đặc biệt là sản vật Hà Nội không thể thiếu , nhất là món phở. Nghe nói hàng phở đầu tiên treo bảng là phở Bính Hói với nghệ thuật tiếp thị hàng đầu là “tiếng chào mau mắn” và hiện nay một tên tuổi khác mới nổi là phở Hùng Cường vừa “tiếng chào cao hơn mâm cỗ” vừa chất lượng đúng Hà Thành. Nhiều đặc sản khác của Hà Nội cũng được Nam Ban mang chiều người, có cả thịt cầy Nhật Tân, bánh cốm Nguyên Ninh, bánh cuốn Thanh Trì, đậu chợ Mơ chấm mắm tôm, chả, giò Ước Lễ nổi tiếng. Bây giờ mối liên hệ với Hà Nội chẳng còn gì cách trở. Xe khách từ Nam Ban đến thẳng Thủ Đô chưa đầy hai ngày, không chỉ một xe mà nhiều xe, có cả xe chất lượng cao, nhưng vẫn giữ lệ khởi hành đều đặn vào các ngày chẵn âm lịch, giá chỉ khoảng 200.000-300.000 đồng. Để thêm chất “Hà” cho Nam Ban, cựu Chủ tịch tỉnh Tuyên Đức có thời tập kết ngoài Bắc đã chỉ đạo mỗi hai đầu đường phố chính Nam Ban trồng một loại cây đường phố Hà Nội như sấu, cơm nguội, hoa sữa…“để dân mình luôn nhớ về nguồn”. Phố chợ Nam Ban nay không còn gập ghềnh vì đường đất đỏ mới làm lại thường xuyên bị máy cày , máy kéo, xe tải chở nặng sắt, thép, xi măng, cà phê, phân bón… cày xới như thời mới lập mà đã được mở rộng, trải nhựa láng coong và đã đầy nhà hàng, khách sạn, tiệm vàng, cửa hàng điện tử, cửa hàng buôn bán vật tư, thu mua cà phê, nông lâm sản…người đi lại buôn bán thâu đêm. Một, hai giờ sáng tiếng xe ô tô chở khách, xe công nông, xe tải, xe máy cùng đồng loạt nổ vang, vọt đi khắp mọi ngả đường. Đến mờ sáng các khu bán hàng trong chợ đã đầy ắp những thịt cá, rau, quả, gạo, ngô, trái cây…“không thiếu thứ gì”. Người mua bán từ các buôn làng đổ về, người buôn chuyến từ đây ra đi, thật chẳng có đâu sầm uất cho bằng.
Kinh tế Nam Ban đi lên không chỉ có sản xuất nông lâm nghiệp và dịch vụ mà đã có sự điểm xuyến của kinh tế công nghiệp. Kinh tế thị trường tác động sản sinh nhiều người dám nghĩ dám làm. Đó là Vũ Xuân Nhã dám đầu tư cả gia tài mở xưởng đan len tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động. Trong lúc Tổng công ty dâu tằm tơ lo phá sản thì cơ sở nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa Cường Hoàn của Phạm văn Cường lại ăn nên làm ra. Ngay bên thác Voi thơ mộng, ngày ngày các cô gái của xưởng quay tơ, dệt lụa đi về gửi gắm tình yêu; “Ươm tơ thì giữ mối tơ - Một trăm mối đứt, em chờ mối anh”.
RẠNG DANH HÀO KHÍ ĐẤT THĂNG LONG
Trở lại với “hợp chủng quốc” Lâm Hà, bây giờ không chỉ có đồng bào Chil, Mạ, K Ho, Stiêng, Mơnông… mà còn có cả người Thái, Tày, Nùng phía Bắc, không chỉ có người Hà Nội mà còn người Nghệ An, Hà Tĩnh, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình…Một vùng dân cư lúc đầu chỉ dăm, bảy trăm hộ dân, nay dân số đã hơn 150.000 người gồm 23 dân tộc anh em sống ở 2 thị trấn, 18 xã với diện tích tự nhiên 160.000 ha và là vùng cây công nghiệp chuyên canh nổi tiếng với 34.000 ha cà phê, 3.000 ha dâu tằm, 700 ha chè, là huyện duy nhất của tỉnh Lâm Đồng hoàn toàn tự túc được lương thực với hơn 4.000 ha lúa nước. Bí thư huện ủy Phạm Kim Khang thuộc thế hệ lãnh đạo thứ ba của huyện cho biết: Hiện tại 20/20 xã, thị trấn của huyện đã có điện lưới quốc gia, 19/20 xã, thị trấn có điểm bưu điện văn hóa, tỷ lệ điện thoại tính theo đầu người là 4/100. Tất cả các xã đều đã có đường ô tô. Hộ giậu trong huyện chiếm 13% và cũng còn lại 13% hộ nghèo.Từ hai bàn tay trắng, trải qua một chặng đường dài đầy gian nan thử thách Lâm Hà được như hôm nay quả thật đáng mừng. Tôi không muốn bị coi là người “tô hồng” ý chí và bản lĩnh của người Thủ Đô trên quê mới, tôi càng không muốn nói về hàng nghìn, hàng vạn những người mệnh danh là triệu phú, tỷ phú được xếp hạng giầu có của huyện Lâm Hà, chỉ muốn nói tới sức tỏa sáng, khía cạnh “đáng khâm phục” của người Hà Nội sống nơi đây.
Người thứ nhất mà chúng tôi gặp nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội là chị Mùi, người Kinh, Hà Nội duy nhất mới từ Hoài Đức vào thôn 2, xã Rô Men cách trung tâm huyện 70 km, lúc bấy giờ còn là đường đất. Ngôi nhà của chị ở nơi hoang vắng này làm chúng tôi bất ngờ về cách tổ chức linh hoạt làm ăn.Trên gác là chỗ cho thuê trọ, thường là giáo viên miền xuôi lên dạy hợp đồng hoặc cán bộ thủy văn, địa chất đi đo đạc, cũng có khi là cán bộ huyện xuống làm việc với thôn xã phải ở lại một vài ngày. Dưới nhà là một cửa hàng “tạp phô” đủ các thứ mắm muối, dưa cà, nhưng đặc biệt nhất là một sân khấu nhỏ kế bên có chỗ ngồi cho hơn trăm khán giả. Chiều chiều bà con tới uống cà phê, giải khát, xem ti vi, video, điện do máy thủy điện nhỏ cung cấp. Tôi nghĩ nhà chị Mùi đúng là một nhà văn hóa xã hoạt động theo hướng đa dạng, có ăn uống, nghỉ ngơi, lại có giải trí. Nếu nghiên cứu Nghị quyết của Chính phủ về xã hội hóa văn hóa, thì đây là dẫn chứng sinh động. Trong bữa cơm chúng tôi được mời có những hạt gạo nương no tròn. Hỏi, chị trồng cả lúa sao? Chị Mùi cười ngượng nghịu: “Không, nhà em chỉ làm vườn, trồng mía thôi, gạo này là giá vé xem ti vi, video, chỉ 500 đến một, hai ngàn đồng, bà con trả em bằng lúa. Có khi xem suốt vụ, đến lúc thu hoạch mới trả cũng không sao. Chúng tôi nghĩ muốn khảo sát xem cái thôn 2 xã Rô Men này một năm có bao nhiêu lượt người xem ti vi, video cứ hỏi chị Mùi xem có bao nhiêu tiền thu phục vụ qui ra lúa, ra ngô, khoai này là chính xác nhất.
Tôi đã đi dọc cái thôn 2 Rô Men có hơn 80 hộ, 500 người dân tộc Mơnông trong tiếng nước reo vang của con suối nhỏ. Quãng trên dòng suối ấy là hàng chục máy thủy điện gia đình. Điện vào từng ngôi nhà dựng theo hàng nối thẳng đều. cảnh ấy cho hình dung cứ mỗi đêm, các ngôi sao trên trời như lại hạ cánh xuống từng nếp nhà làm sáng những trang sách trẻ nhỏ. Bà con Mơnông bảo: “Chúng tao cũng làm theo cái nhà chị Mùi, bắc cái điện vào nhà, làm cái chuồng bò, chuồng heo ra xa nhà mình ở cho sạch sẽ, tránh cái bệnh tật, xem cái ti vi nhà chị Mùi biết được nhiều cái tốt lắm”. Anh cán bộ văn hóa huyện đi cùng chúng tôi kể chuyện vui: Hồi mới có điện thắp sáng, nhiều người già nói, khuya rồi, tại sao nó (bóng điện) cứ nhìn tao hoài mà không chịu đi ngủ? Bây giờ quen rồi muốn cho nó cùng đi ngủ chỉ việc với tay tắt cái công tắc là xong.
Trên đường vào xã Phi Liêng,( nay thuộc huyện mới Đam Rông), một xã vùng sâu, vùng xa có 10 thôn thì 9 thôn 100% là đồng bào dân tộc K Ho, Chil, Mạ…chúng tôi gặp một cặp vợ chồng di dân tự do “tử thủ”. Vợ tên là Cao, trước đây là nhân viên cửa hàng lương thực huyện Gia Lâm thời “tem phiếu”. Chồng tên Tâm, không hề tự ái khi bà con gọi là Tâm ngựa. Cả cái dốc nơi hai vợ chồng này dựng nhà ở cũng được gọi là dốc Tâm ngựa. Lai lịch như sau: Khi mới đến Phiêng Liêng, việc đầu tiên của đôi vợ chồng này là dồn, vay tiền mua ngay một con ngựa. Đường rừng, đất núi, chỉ có ngựa thồ là nhất. Mỗi ngày anh chồng dắt ngựa thồ hàng thuê, đường trường tới bốn năm chục cây số, khi cần đi cả đêm cũng không ớn. Dân gọi Tâm ngựa vì vậy! Từ ngựa thồ, vợ chồng Tâm-Cao vực lên mua được một xe cơ giới đa năng chở hàng, giống cây, cày, kéo, tưới nước thuê…“làm gì em cũng phục vụ, miễn là ra tiền”, anh Tâm nói giọng rất vui.
Chị Cao quả thật là một phụ nữ ngoan cường. Với khuôn mặt xương gầy, nói như chị Cao, là vì làm lụng cật lực, nhưng vẫn giữ được đôi mắt đen lay láy của một thời “đẹp gái”. Chị Cao làm đủ thứ việc: nhận khoán trồng, bảo quản, chăm sóc gần chục ha rừng, vỡ đất trồng cây công nghiệp, nuôi heo, tằm và nuôi cả trăn. Ngôi nhà của anh chị thật thô sơ, bằng tre, tranh gép lại, chẳng thấy có thứ đồ đặc nào ra dáng đổi mới cả. Chúng tôi hỏi, sao hai vợ chồng “đồng khởi” làm ăn mà nhà cửa như thế này? Câu trả lời của chị Cao khiến cho những người “đường nhựa” như chúng tôi, xét kỹ cũng tự thấy xấu hổ: “Có bao nhiêu chúng em lo cho các cháu ăn học cả. Trời cũng thương, làm sao cả 5 đứa con em đều ham học. Anh tính gửi cả 5 cháu học trên Đà Lạt, ba đứa học đại học, thì vợ chồng em phải sống sơ sài thế này là đúng rồi.” Tôi biết một trong số những người con của anh chị Tâm-Cao nay mai sẽ là nhà báo, có thể sẽ là một nhà báo năng động, hiện đại. Anh đang học đại học khoa luật, thêm đại học ngữ văn khoa báo chí, học tiếng Anh, xin tiền bán tơ tằm của mẹ mua một cái máy ảnh xịn rồi học chụp ảnh, vừa học vừa chụp ảnh thuê, thêm thắt vào tiền bố mẹ cho để nuôi các em ăn học.
Cái chất làm lụng siêng năng của bà con kinh tế mới thực sự tác động qua lại giữa các cộng đồng đã là một động lực thúc đẩy cho sự phát triển đời sống kinh tế xã hội mà hình ảnh Lâm Hà là một thí dụ. Nhớ lại chuyến đi cùng anh Văn Thảo, anh Nguyễn Gia Tình 10 năm trước. Lúc ngồi ở nhà chị Cao, ông KSiêng người dân tộc K Ho, Chủ tịch xã Phi Liêng chở con đi học trên trường huyện bằng xe gắn máy trở về gặp chúng tôi ập vào nói chuyện. Theo ông Ksiêng thì: “ Thấy ông bà Cao-Tâm ngựa này cho con đi học, người K Ho cũng tự nghĩ, con anh em người Kinh học giỏi, sao người K Ho không làm theo cho con em đi học?” Về học cách làm ăn của người Hà Nội, ông Ksiêng nói: “Nhìn họ làm, làm theo dễ hơn ngồi nghe giảng ở mấy cái lớp khuyến nông nhiều”. Xã Phi Liêng ở phía bắc huyện có 9 thôn đồng bào dân tộc mới được di dời từ vùng Tây Sơn “hóc bà tó” vốn chỉ quen sống du canh, du cư, đứt bữa là chuyện thường. Từ khi về Phi Liêng “ở gần với người Kinh anh em” bà con đã giỏi giang lên rất nhiều. Theo lời mời của ông KSiêng , anh Văn Thảo, Nguyễn Gia Tình đưa chúng tôi về xã Phi Liêng “cho các ông uống rượu cần và nghe bà con nói”.Đứng bên những nếp nhà mới dựng ở khu trung tâm xã rộng tới 160 ha này, anh Văn Thảo chỉ tay về những mảnh vườn quanh nhà: “Ông có thấy nhà nào cũng có bụi chuối xung quanh không? Công vận động, bày vẽ của chúng tôi đó. Nói theo kiểu văn nghệ như các ông, tàu lá chuối là để nó có không khí gần gũi làng xóm. Còn tụi này, đấy lại là chuyện cái ăn của bà con trước đã”. Nhiều năm qua Phi Liêng được Nhà nước đầu tư xây dựng, mỗi năm vài tỷ đồng. Bức tranh xã văn hóa đã hiện lên rành rẽ: Khu trung tâm hành chính, khu sản xuất tiểu thủ công nghiệp, khu dân cư mỗi cụm có từ 50-100 hộ. Mỗi hộ nhận 1 ha trồng cây công nghiệp (cà phê), nuôi năm, bảy trâu hoặc bò và nhận quản lý bảo vệ 3-5 ha rừng có thu nhập…Khu trung tâm xã Phi liêng có lẽ là một hình mẫu về nông thôn mới với những cụm nhà hai tầng như UBND, Trường phổ thông, mẫu giáo, trạm điện, đài truyền thanh,, trạm xá, trạm khuyến nông, trạm cấp nước sạch, có cả chi nhánh ngân hàng…về đất sản xuất cho bà con dân tộc, chủ trương là “bất di, bất dịch”. Lâm Hà đã có “kinh nghiệm đầy mình”: cấm không mua bán, sang nhượng, không được “kinh hóa” đất đai cấp cho người dân tộc bất kỳ hình thức nào. Trước đây có trường hợp cấp đất cho bà con, được huyện đầu tư đã lên vườn, nhưng có người bán đi “cái một”, lấy tiền mua xe gắn máy “chạy cho thích”.
Ông Chủ tịch xã mới còn rất trẻ thông báo với chúng tôi về lưng vốn của xã, hiện đã có gần nghìn con bò, nửa nghìn con trâu, hơn 300 xe gắn máy, hai chục máy xay xát, nhiều nhà đã có ô tô tải, xe con, nhà nhà đều có ti vi. Đã có nhiều người dân tộc được kết nạp vào Đảng, nhiều con em dân tộc học đại học, làm kỹ sư bác sĩ. Ông kể về lớp cán bộ xã đầu tiên được anh em người Kinh giúp đỡ đào tạo như ông Ksiêng được học lớp cảm tình Đảng ngay tại thôn rồi được kết nạp vào Đảng, hết thời gian dự bị đã trúng ngay vào huyện ủy. Vợ ông chủ tịch cũng góp vào câu chuyện: “Cái chị em phụ nữ người Kinh nó năng động, giỏi giang, phụ nữ dân tộc học được nhiều lắm”. Người K Ho cũng có nhiều phụ nữ tháo vát không kém. Đó là điều tôi nghĩ khi thấy bà vợ ông Chủ tịch vừa gùi con phơi cà phê, thấy chuông điện thoại vội đến nghe nói chuyện lưu loát, trả lời chúng tôi rành rọt lúc rót nước mời khách, nhất là khi có có những chiếc xe Minsk táp vào mua cà phê thì rất đon đả…
Phải chăng đó là mối quan hệ ‘tỏa sáng” giữa các cư dân xây dựng kinh tế mới với bà con dân tộc bây giờ đã là “người anh em thân thiết”. Tôi chợt nhớ cựu Bí thư huyện ủy Lâm Hà (thuộc lớp cán bộ thứ hai) Nguyễn Quốc Triều, người Hà Nội chính gốc đã không hề tự ái nói rằng: Dân di cư, kinh tế mới thường là nghèo. Người Hà Nội vào đây cũng vậy. Nhưng cái mạnh của người nghèo là nghị lực lập nghiệp. Và chính sự “pha trộn” người tứ xứ trên một vùng đất càng tạo nên thế mạnh, các dân tộc học nhau cách nghĩ, cách làm, cùng nhau sáng tạo xây dựng quê hương đất nước. Riêng người Hà nội “dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội”. Nhất là những ngày này, cả đất nước đang hướng về đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Tác giả bài viết: KhanhNguyen
Nguồn tin: tin24h |
|